Bác sĩ dặn bệnh nhân: - Bà bị thiếu tanin và chất xơ nghiêm trọng, cần ăn thật nhiều quả màu xanh và phải ăn cả vỏ không được gọt bỏ. - Tôi xin ghi nhận lời khuyên của ông. Đến hẹn khám lại, bác sĩ hỏi: - Cách ăn hoa quả như vậy có ảnh hưởng gì không? - Thưa không! Đào, lê, táo, nho... đều ổn cả, chỉ có... quả dừa thì ăn hơi lâu. ( Sưu tầm )
"Bất kể em, tôi và cái thế giới ngu ngốc này đang vỡ tan ra quanh chúng ta, tôi yêu em… Vì chúng ta giống nhau: đều xấu xa, thông minh và ích kỷ nhưng lại có khả năng nhìn mọi vật bằng mắt và gọi đúng tên… Tôi yêu em hơn tất cả những cô gái mà tôi từng yêu. Và tôi đã chờ em lâu hơn tôi phải chờ tất cả những cô gái khác”.
Tôi từng thích và hiện giờ tôi vẫn thích câu nói này của Rhett khi gã nói với Scarlett, một cô gái mà phụ nữ nguyền rủa nàng sau lưng nhưng thầm ghen tị nàng trong thâm tâm. Đàn ông cảm thấy bị xúc phạm và phẫn nộ trước những hành động ngạo ngược của nàng nhưng sẵn sàng đánh nhau chí tử chỉ để được mang cho nàng món tráng miệng.
Rhett, một gã luôn tỏ ra bất cần, khả ố, nhưng sâu trong trái tim, hắn cao thượng và chân thành. Hắn tử tế theo kiểu của hắn, sống theo ý thích, mặc xác thiên hạ nghĩ gì mà không thèm thanh minh hay giải thích. Scarlett thì dường như mãi mãi chỉ là một con bé bướng bỉnh, quen được chiều chuộng và không chịu lớn. Nếu như ngay từ cuộc chạm trán đầu tiên, Rhett đã biết Scarlett là người phụ nữ của đời mình thì Scarlett ngược lại, chỉ nhận ra điều ấy khi mọi chuyện đã quá muộn.
Rhett cuối cùng đã bỏ đi, với câu thoại kinh điển: “Frankly, my dear, I don’t give a damn” (Nói thẳng là, em yêu, anh cóc quan tâm). Scarlett gục khóc trên cầu thang rồi quyết định trở về Tara với một câu thoại lừng danh không kém “After all, Tomorrow is another day” (Sau tất cả, mai là một ngày nữa).
Tôi không mong muốn trên nhân gian này có nhiều mối tình như họ, bởi nó quá nhiều trái ngang, sóng gió, thử thách, quá nhiều nước mắt, cay đắng và khổ đau. Nhưng tôi thích tính cách của cả hai con người họ trong tình yêu. Những con người luôn biết can đảm, mạnh mẽ đi qua số phận, để rồi họ cũng luôn nhận ra điều mình thực sự mong muốn là gì.
TÌNH YÊU, hãy cảm nhận bằng cả con tim và lý trí mình để nhận ra ai mới thực sự là người phù hợp. Hãy sống và hãy yêu khi còn có thể, bởi như Rhett từng nói: Tình yêu vĩ đại nhất vẫn có thể bị lụi tàn...
Tôi gặp Trịnh Công Sơn vào năm 1958 tại Huế; lúc đó Sơn khoảng 17 tuổi và tôi 18 tuổi. Chúng tôi chơi với nhau vì cùng tâm hồn thi ca, và bởi vì lúc đó tôi chưa hề là họa sĩ.
Sơn thích thơ của tôi và đã phổ bài "Cuối cùng cho một tình yêu" năm đó. Trước đó, Trịnh Công Sơn đã viết "Ướt Mi", "Thương một người" và "Nhìn những mùa Thu đi". Ngôn ngữ của "Ướt Mi", "Thương một người" và "Nhìn những mùa Thu đi" còn nhẹ nhàng, và còn có gì đó ảnh hưởng của Ðặng Thế Phong trong "Giọt Mưa Thu" hoặc "Buồn Tàn Thu" của Văn Cao – nhưng đến khi Sơn phổ nhạc bài thơ của tôi, nhạc của Sơn bắt đầu một chương khác, do ngôn ngữ của bài thơ lúc đó rất là mới. Tôi đã dùng những chữ "đói", "mỏi" trong thơ, mà lúc này Sơn lại thích bài thơ đó.
Tuy nhiên theo tôi, bài Diễm Xưa của Sơn mới là mở đầu của một TCS hoàn toàn mới lạ và cực kỳ hấp dẫn trong nhạc trẻ, giới trẻ hồi đó.
Cuộc đời của Sơn là một bi kịch. Ba của Sơn mất lúc anh đang học ở Chasseloup Laubat - một trường dạy chương trình Pháp - và đang chuẩn bị thi bac thì Sơn phải bỏ học để về chịu tang ba.
Sơn rất giỏi thể thao. Anh tập 10 môn phối hợp rất được chú ý ở trường học. Sơn cũng giỏi về NhuÐạo và Boxing. Trong một buổi dợt với người em là Trịnh Quang Hà - anh đã bị một cú choàng vai, và bị tổn thương phổi rất nặng, nên phải bỏ cuộc, và nằm dưỡng bệnh hai năm. Nếu Sơn không bị những sự kiện đó, tôi nghĩ là Sơn sẽ đi học ở Paris và sẽ trở thành một tiến sĩ, một bác sĩ, một kỹ sư ... chớ không phải là một nhạc sĩ Trịnh Công Sơn.
Tôi cho biến cố đó đã đặt Trịnh Công Sơn vào tình trạng cô đơn, tuyệt vọng. Sơn tập chơi guitare, tự học guitare với một người bạn, rồi sau đó viết ca khúc "Ướt Mi", "Nhìn Những Mùa Thu Ði".
Khi tôi gặp Sơn, thì anh đã bình phục - Sơn không có điều kiện trở lại Sài Gòn để học tiếp ở Chasseloup Laubat vì gia đình anh bị phá sản,
Sau đó - để tránh cho Sơn khỏi phải đi quân dịch, một số bạn như Hoàng Phủ Ngọc Tường, Ngô Kha đã giúp Sơn thi vào trường Sư phạm Quy Nhơn.
Ca khúc Biển Nhớ đã ra đời tại trường sư phạm Quy Nhơn – trong thời gian này. Và nhân vật để Sơn viết bài Biển Nhớ là một người bạn gái có tên là Khê, nên có cái câu "Ngày mai nối bước Sơn Khê."
Sau đó Sơn lên B'Lao nhận chức trưởng giáo của một trường Thượng có hai lớp, cách nhà trọ khoảng năm bảy cây số. Sơn phải đạp xe vào làng để dạy. Tôi lên thăm Sơn, và đưa Sơn raÐà Lạt để chơi cuối tuần - một căn phòng trọ với bốn bức vách đầy chim và bao thuốc lá Bastos - ở đó Sơn đã bắt đầu sự nghiệp âm nhạc của anh với những bài nhưÐàn Bò Vào Thành Phố, như Khi Mặt Trời Ngủ Yên, như Tiếng Hát Dạ Lan. Và đó cũng là thời gian anh viết những ca khúc về thân phận, và những tình khúc.Ðó chính là thời điểm tôi và Sơn gặp Khánh Ly tại một phòng trà ca nhạc nhỏ ở Ðà Lạt.
Thật ra, người hát đầu tiên nhạc Trịnh Công Sơn và làm cho công chúng yêu nhạc Sài Gòn biết đến Sơn không phải là Khánh Ly mà là Thanh Thúy. Sau đó Trịnh Công Sơn viết bài Thương Một Người để tặng cho chị với câu: "thương ai về ngõ tối, sương rơi ướt đôi vai..."
Tuy nhiên, theo tôi, người giữ lái con đò âm nhạc của TCS trên dòng sông của đất nước chính là Khánh Ly kể từ khi Diễm Xưa ra đời. Cuộc gặp gỡ một cô ca sĩ bé nhỏ trông rất là nhếch nhác ở Ðà Lạt lại là một định mệnh. Sơn đi tìm một người ca sĩ trẻ - hoàn toàn vô danh và Sơn bắt đầu từ giọng hát của người ấy với sự tập luyện của chính anh, bởi vì lúc đó Sơn không quen biết những ca sĩ nổi tiếng của Sài Gòn. Và anh nghĩ dễ hơn là đi tìm một ca sĩ vô danh như Khánh Ly lúc đó. Ánh sáng của định mệnh đã chỉ cho Sơn đến với Khánh Ly - và từ đó Khánh Ly đã tìm được nơi nương tựa và nơi phát triển tiếng hát của mình lên đỉnh cao.
Chúng tôi khuyến khích Sơn về Sài Gòn, bỏ dạy học - một cái nghề không thích hợp và không xứng đáng với Sơn. Tôi có căn phòng rất nhỏ ở đường Trương Minh Giảng. Sơn từ Ðà Lạt về và đã ở lại với tôi trong nhiều năm. Căn phòng đó ở gần chợ Trương Minh Giảng, bên kia đường là nhà của Bùi Giáng - cũng trong một cái xóm nghèo. Nhà tôi là nơi tạm trú đầu tiên của TCS khi anh về Sài Gòn. Chính họa sĩ Ðinh Cường một trong những người bạn rất thân với Sơn - cũng thường ghé đến đó.Ðôi khi ba chúng tôi ngủ chung trong một chiếc chiếu, và đã sống với nhau bằng đồng tiền dạy học của tôi.
Từ đó Sơn gặp anh em văn nghệ sĩ ở Sài Gòn. Anh bắt đầu xuất hiện tại sân trường Ðại Học Văn Khoa ở đường Lê Thánh Tôn nơi có trụ sở của Hội Họa Sĩ Trẻ và sau lưng đó là trụ sở của CPS nơi mà Ðỗ Ngọc Yến, TrầnÐại Lộc, Hà Tường Cát... đã hoạt động chương trình mùa hè ở đó.
Tại sân cỏ này, Sơn đã giới thiệu Khánh Ly và chị đã đi chân trần và hát cho Sinh Viên nghe. Rất nhanh họ trở thành thần tượng của tuổi trẻ Sàigòn, do tính chất mới mẻ và trẻ trung của nó. Trịnh Công Sơn và Khánh Ly trở thành một hiện tượng âm nhạc ngay lúc đó.
Phong trào du ca, của anh Nguyễn Ðức Quang,... đã ra đời cùng thời điểm đó. Tôi cho đó là một thời điểm lịch sử - thật sự bùng nổ về văn nghệ của giới trẻ trong đó có chúng tôi - hội họa sĩ trẻ Việt Nam.
Chính thời đại đã sản sinh ra những hiện tượng như vậy và TCS và Khánh Ly đã là những khuôn mặt nổi bật trong giới trẻ bấy giờ.
Trịnh Công Sơn - nối tiếp cao trào đo ù- đã dấn thân thêm nhiều bước trong lãnh vực âm nhạc của mình gần gũi với xã hội, và thời cuộc đất nước hơn. Những Ca Khúc Da Vàng, rồi đến Kinh Việt Nam ra đời trong giai đoạn này. .
Người ta gọi nhạc Trịnh Công Sơn - ở một số ca khúc - là nhạc phản chiến . Tôi đồng ý với anh Phạm Duy, chữ "phản chiến" không đầy đủ ý nghĩa của nó, bởi vì chữ phản chiến nghe ra có vẻ kết án, có vẻ phải gánh chịu cái hậu quả của sự thất bại của Miền Nam . Tôi cho là chữ "thân phận" của người Việt thì khái quát hơn.
Một thanh niên Việt Nam ở bất kỳ thời đại nào, vẫn đầy sự hồn nhiên, và vẫn đầy lòng lương thiện để có một lý tưởng cho dân tộc, cho sự công bằng, cho sự không đổ máu , cho sự đoàn kết, cho sự thương yêu ... và cái chất đó có hầu hết ở chúng ta, và có hầu hết ở các lứa tuổi đang bước vào Ðại Học ... nhưng tuổi trẻ không bao giờ lường trước được những âm mưu của chính trị - cho nên sự hồn nhiên đó phải trả giá.
Trịnh Công Sơn viết những bài Nối vòng tay lớn, Huế-Sài Gòn-Hà Nội 20 năm xa vẫn còn xa ...Ðể làm gì? Ðể ước mơ đất nước hòa bình thống nhất - để ước mơ anh em bắt tay nhau khi mà người di cư đã viết về "Hà Nội ơi ta nhớ...", thì rõ ràng không ai lại không nhớ Hà Nội nếu bỏ quê hương ra đi, không ai không muốn gặp lại người thân ... thì Trịnh Công Sơn đã đứng làm kẻ chịu vác cái thánh giá đó với bao nhiêu bi kịch sau đó .
Tôi và Sơn là hai người bạn, khác nhau hai hoàn cảnh. Tôi là sĩ quan của quân lực Việt Nam Cộng Hoà. Tôi chấp nhận đi Thủ Ðức bởi vì tôi không muốn sự bất hợp pháp. Tôi là một công dân tôi phải làm việc của người công dân, cho dù là chính quyền đó có thối nát, có gì đi nữa - tôi không chấp nhận sự bất hợp pháp cho nên tôi đi lính. Tôi thi hành nghĩa vụ của mình. Còn Sơn thì khác, anh không chấp nhận chuyện đó, Sơn chỉ đi vì lý tưởng của mình.
Bởi vì chúng ta là những con người chọn dân chủ, chọn tự do thì phải tôn trọng tự do của kẻ khác; vì vậy cho nên chúng tôi vẫn chơi với nhau trong tình người, còn việc làm của ai thì người đó đeo đuổi riêng của họ.
Đến ngày 30 tháng Tư thì Sơn ở lại. Tôi nhớ buổi chiều đó, Ðỗ Ngọc Yến đến đón Sơn với một nhà báo Mỹ đề nghị Sơn đã có máy bay đưa gia đình Sơn đi Hoa Kỳ. Tôi rất muốn đi Hoa Kỳ nhưng mà Ðỗ Ngọc Yến lại không hỏi tôi. Sơn ở lại thì tôi cũng đành ở lại. Tôi thì đành thôi và sau đó thì tôi đi học tập ba năm.
Còn Sơn cũng không hơn tôi đâu. Khi các bạn đã rời khỏi đất nước ngày 30 tháng Tư, có lẽ các bạn không biết chuyện gì đã xảy ra cho Sơn. Sơn phải trốn ra Huế sau khi được đánh tiếng là sẽ bị thủ tiêu bởi vì tính chất hai mặt của Sơn trong âm nhạc và tính chất hai mặt của Sơn trong cuộc đời. Bởi vì Sơn là bạn của những nhân vật cao cấp của chính quyền Sài Gòn. Sơn đã từng viết Cho Một Người Nằm Xuống về cái chết của Lưu Kim Cương và đồng thời với Hai Mươi Năm Nội Chiến từng ngày, thì điều đó người cộng sản không chấp nhận. Tôi nghe kể lại cuộc họp ở trong khu người ta lên án Trịnh Công Sơn.
Chúng ta không biết bi kịch đó cho nên chúng ta có những ngộ nhận đáng tiếc. Sau đó Sơn phải về Huế để tìm một nơi nương tựa bởi vì ở đó Sơn có nhiều anh em. Anh hy vọng là họ sẽ giúp đỡ mình; nhưng, tránh võ dưa gặp võ dừa, ở đây Sơn còn bị nặng hơn nữa là bị tố cáo tại các trường học, các biểu ngữ giăng lên. Sơn phải lên đài truyền hình Huế nhận lỗi của mình - mà người ta gọi là bài thu hoạch. Sơn rất khéo léo trong bài nhận lỗi đó. Chính Sơn kể cho tôi nghe - Hoàng Phủ Ngọc Tường không đồng ý bài đó, nói phải viết lại vì chưa thành thật. Bạn thấy chưa?
Người ta quyết liệt ghê gớm lắm trong sự kiểm soát. Sơn đã đóng cửa nhà mình, không tiếp Hoàng Phủ Ngọc Tường trong nhiều năm. Sau đó, Sơn phải đi thực tế, tức là đi để biết người nông dân cày bừa cực khổ như thế nào. Sơn đi trên những cánh đồng còn rải rác những chông mìn. Sơn đã thoát chết trong một lần; một con trâu đã cứu Sơn khi nó đạp quả mìn mà đáng lẽ Sơn sẽ đạp.
Bởi vì tài năng âm nhạc của Sơn quá lớn, cho nên trong số những người lãnh đạo đất nước đó, cũng có người khôn ngoan hơn, biết cách thức hơn để giữ Sơn lại bằng cách bao bọc cho Sơn khỏi những tình huống hiểm nghèo như vậy. Họ đã tìm cách đưa Sơn về Sài Gòn, trả lại hộ khẩu cho Sơn, tạo điều kiện để cho Sơn yên tâm sống ở Sài Gòn.
Rất nhiều người nghe nhạc Sơn thầm lén nhất là từ miền Bắc, trong đó có nhiều đảng viên cộng sản, nhưng không ai dám công khai thừa nhận nhạc của Sơn là tài sản của đất nước và Sơn không được phổ biến âm nhạc lúc đó - hiển nhiên âm nhạc hải ngoại là phản động. Ngay cả Sơn còn không được phổ biến, mà phải đợi một thời gian đổi mới và cải tổ. Vì vậy cho nên, Sơn là một bi kịch thu nhỏ của bi kịch đất nước. Và Sơn đã nghe được những luận điệu chống mình ở tại hải ngoại, nên Sơn rất sợ mặc dù có nhiều lời mời ở các đại học. Sơn đều không dám đi. Sơn từ chối, vì Sơn sợ cộng đồng ở đây sẽ đả đảo sẽ gây ra những nguy hiểm cho Sơn. Cho đến ngày Sơn mất. Có người đã về đề nghị đưa Sơn sang đây để thay gan cho Sơn miễn phí nhưng Sơn cũng từ chối.
Trong thời gian 25 năm sau ngày mất Sài Gòn, tôi cũng kẹt ở lại - tôi đã chơi với Sơn, và tôi đã không làm gì được cho Sơn - để Sơn bị một căn bịnh đã dẫn tới hậu quả tàn khốc, tức là nghiện rượu. Bởi vì buồn, bởi vì cô đơn, bởi vì không biết sử dụng thời gian để làm gì ... vì những ca khúc viết ra đều bị phê bình nặng nề - như bài "Em ra đi nơi này vẫn thế ..." ở bên này cũng kết án bài đó - ở bên kia lại kết án là "Tại sao đất nước đã thay da đổi thịt mà anh lại viết là em ra đi nơi này vẫn thế? Sài Gòn vẫn còn nguyên à?" Người nghệ sĩ luôn đi giữa hai lằn đạn! Có ai hiểu được là Sơn cô đơn như thế nào!
Và trong nhiều sáng tác của anh, nếu chúng ta tinh ý, thì chúng ta sẽ thấy tư tưởng của TCS sau ngày mất nước. Sơn đã viết "Đường chúng ta đi, đi không bao giờ tới ..." Những ca khúc nói lên sự quạnh quẽ, sự tuyệt vọng, sự bất an của mình.Ðó là một dòng nhạc đặc biệt mà có người không hiểu chê là thua những ca khúc anh viết trước 75 để chỉ chấp nhận tình khúc của anh mà thôi. Chúng ta không biết đến một dòng nhạc triết lý và đầy đau thương đã ra đời một cách lặng lẽ âm thầm.
Ngay cả bài Nhớ mùa thu Hà Nội cũng đã bị cấm hai năm - chỉ vì câu - chỉ vì câu gì các bạn biết không? Mùa Thu - chữ Mùa Thu Hà Nội đã trở thành thuật ngữ Cách Mạng Mùa Thu - thì TCS đã viết "Từng con đường nhỏ sẽ trả lời cho ta ... đi giữa mùa Thu Hà Nội để nhớ một người và nhớ mọi Người ..."
Người ta đặt câu hỏi: Nhớ một người là nhớ ai? Và từng con đường nhỏ tại sao lại phải trả lời? Hà Nội, những con đường của Hà Nội tại sao lại phải trả lời? Trả lời cho ai? Trả lời cái gì? Ðó là nhớ Khánh Ly và Khánh Ly sẽ đem phục quốc về ... Với sự suy diễn như vậy , méo mó như vậy, bài hát đó đã bị cấm hai năm. Các bạn có biết cái nỗi đau của người sinh ra đứa con tinh thần như thế nào?
Và chúng ta sai hay đúng, hãy tự soi lấy mình - khoan kết án người khác sai hay đúng - bởi vì trong chúng ta cũng đều bị lừa dối ! Chúng ta đã trưởng thành chưa sau nhiều lần bị lừa dối về chính trị - thì chúng ta đừng trách Trịnh Công Sơn và đừng trách những người nghệ sĩ nhạy cảm và chân thật với cuộc đời với con người.
Tôi xin kết thúc ở đây - để dành thời gian cho các bạn khác - tôi là một người bạn - là một nhân chứng sống trong nhiêu năm với TCS. Những ngày tháng cuối cùng của anh, tôi đã ở bên anh mỗi lần tôi có mặt ở Việt Nam. Buổi sáng, tôi ngồi với anh dưới bóng cây để uống trà, để nhìn nhau cho đỡ nhớ, để nói với nhau một vài thông tin về bạn bè - rồi đi về. Sơn ngồi ở cái vườn trên gác nhà anh, có một cây hoa sứ già 28 năm, một giàn hoa giấy ... nó đã trở thành một cánh rừng nhỏ của Sơn và tôi đã nhìn Sơn tàn phai theo nắng chiều qua những tia nắng hoặc cuối mùa, cuối ngày qua những chiếc lá của cánh rừng bông giấy. Và thỉnh thoảng có vài tiếng chim hót như chia sẻ cái nỗi cô đơn của Sơn. Buổi chiều, tôi và Sơn đi ra ngoài một cái nhà hàng mà các bạn chắc còn nhớ, đó là Givral để nhìn qua bên kia khách sạn Continental để nhìn cuộc đời đi qua, để nhìn những nguời Việt Nam đang hấp tấp vội vã trên đường phố, để nhìn một chút trời xám , để nhìn vài cánh én ... Rồi Ði Về.
Sơn thèm đi ra phố - Sơn thèm hơi của thành phố. Bởi vì chúng tôi là những con người đã gắn bó với Sài Gòn từ lúc trẻ cho nên "Chiều một mình qua phố ..." hay "Chiều chủ nhật buồn, nằm trong căn gác đìu hiu ..."Ðó là đời sống của chúng tôi, và nó theo chúng tôi mãi mãi. Và Trịnh Công Sơn - hôm nay tôi được dịp để nói về anh, về cái sự tuyệt vời chịu đựng một bi kịch kéo dài cho tới ngày mà căn bịnh quái ác đã đục khoét tinh thần sức khỏe của anh cho đến hơi thở cuối cùng. Bởi vì sự cô đơn thật không có điểm tựa để làm việc. Và anh đã chết vì cơn bịnh này.
Trịnh Cung
Khi còn nhỏ, nó như bất kỳ một đứa trẻ nào đều có cuộc sống hết sức vô tư, hồn nhiên đẹp đẽ. Đối với nó, khoảng sân trước nhà, khóm hoa trước cửa, mảng trời sau vuông cửa sổ… là tất cả thế giới, là niềm vui bất tận, là mục đích để cho nó khám phá không biết chán.
Nó có thể ngồi cả buổi ngắm một con chuồn chuồn khép cánh, chờ đợi đôi cánh của nó từ từ thay đổi, cong vút lên, rồi bay đi. Nó có thể tò mò xem xét đôi mắt trong veo to lớn ấy để ngẫm nghĩ về tạo hoá, “Từ đâu chuồn chuồn có đôi mắt lạ lùng thế. Nó có nhìn thấy mình không? Nếu biết nói, nó sẽ nói gì với mình nhỉ?”… Còn nó, nó có thể nói với chuồn chuồn, chim chóc, hoa lá cả ngày, tâm sự đủ thứ như một người bạn. Trong bất kỳ hoàn cảnh nào, nó, đứa trẻ ấy vẫn luôn sống trong hân hoan, luôn tìm ra niềm vui thích để tận hưởng hoàn cảnh mà cuộc sống đưa lại, không phải suy nghĩ đến việc phải thay đổi hoàn cảnh sống bao giờ. Đứa trẻ ấy có nhiều ước mơ, nhưng không bị sự khao khát phải đạt được. Nó có nhiều phân tích, nhưng không có sự can thiệp của lý trí. Trong nó chỉ luôn là những cảm xúc tích cực, trong sáng, hồn nhiên và đầy ắp niềm vui. Hạnh phúc của một đứa trẻ thật ra chỉ đơn giản như thế!
Rồi đứa trẻ ấy cũng phải lớn lên. Rời vuông cửa, rời khoảng sân, khóm hoa, rời cánh rừng sau nhà để về thành phố, rồi phải đi học, phải tiếp xúc với chúng bạn, với xã hội. Khi phải bước chân vào môi trường này, cuộc sống của nó bắt đầu xáo trộn. Mỗi hoàn cảnh tác động lên nó thật dữ dội.
Tâm thức của nó được (bị) mở ra liên tiếp với bao nhiêu câu hỏi 'Tại Sao?' dồn dập đến, dồn dập những câu trả lời. Vừa phải tập quen với hoàn cảnh sống mới, phải tiếp xúc với những lễ nghi, vừa phải phấn đấu theo trào lưu chung như một một đứa trẻ thành phố, phải tới trường, phải học giỏi, phải làm hài lòng người lớn, cha mẹ, thầy cô, phải chứng tỏ với chúng bạn, phải… phải… và vô vàn “sự phải” khác thấm đẫm nghĩa vụ ngày càng dày đặc trong cuộc đời nó.
Khi nhận thức càng có, sự học hành càng nhiều, túi đời của nó, đứa trẻ ấy càng đầy, càng chật chội. Một mặt khác, tự bên trong nó hình thành nên những suy nghĩ mới, những hơn thua, lấy, bỏ, được mất. Cảm xúc của nó cũng thế, nhiều và đa dạng hơn, như chính những va đập xảy ra trong xã hội. Giờ đây cuộc sống của nó, đứa trẻ ấy bắt đầu có nước mắt, những sự “chịu đựng” hay những thoả hiệp bắt buộc. Những conflict đối nghịch. Những gì là “tự nhiên” ngày xưa chỉ còn là những rơi rớt, những khoảng khắc, những ký ức đẹp đẽ để thỉnh thoảng tìm về khi mệt mỏi hay thất vọng với cuộc sống. Sự tìm về trú ẩn tạm thời trong tâm thức của nó giống như tìm về một ốc đảo an lành trong sa mạc, như hốc cây khô ấm áp của chú sóc trong mùa đông lạnh lẽo.Tất cả mài dũa dần đi sự tự nhiên của một đứa trẻ. Tâm thức của nó ngày càng tròn trĩnh hơn. Nó bắt đầu công cuộc “mài dũa” chính mình.
Nó không còn nhìn đời với con mắt trong sáng “vô điều kiện” nữa. Hành vi của nó bắt đầu có điều kiện, có mục đích. Nó dần thấy những mặt trái, tiêu cực, hơn là tích cực. Sự khám phá của nó vươn ra bên ngoài thay vì nhìn vào bên trong như trước. Suy nghĩ của nó ngày càng mang tính suy xét, kết luận, logic, đúng sai. Những cái “bên ngoài” ấy hình thành nên những thay đổi trong nhân cách của chính nó. Cả quá trình đó nếu nói đúng từ, thì chính là quá trình phá vỡ tâm thức của một “đứa trẻ” ngày xưa để nhào nặn nên những sự trưởng thành khác biệt, đôi khi là “dị biệt” của một con người.
Và thế là đứa trẻ trong nó tiếp tục lớn, tiếp tục trưởng thành. Rồi biết yêu, rồi lấy chồng, rồi có con, rồi phấn đấu vì sự nghiệp riêng. Càng bước qua những giai đoạn ấy trong cuộc đời, những niềm vui và hạnh phúc của nó cũng thay đổi. Các giá trị cũng ngày một đổi khác. Nhưng có một sự thật đó là, nó ngày càng cách xa tâm thức một đứa trẻ của một thủa nào. Kiếm nhiều tiền để mua những gì khiến nó vui hơn. Đi khắp thế giới đến những nơi nó cho là đẹp hơn. Lựa chọn hoàn cảnh để mong tìm ra “ốc đảo” an bình, yên ấm hơn. Cả đời nó cứ đi như thế để tìm kiếm. Càng làm đầy cho mình sự hào nhoáng bên ngoài, trong lòng nó càng nhiều hơn những thất vọng, những vết thương bầm dập, những xác xơ trong tâm. Thật sự cuối cùng nó khao khát điều gì, đang tìm kiếm điều gì trong cái thế giới không ngừng biến đổi này? Biết bao lần nó tự hỏi: Hạnh phúc đích thực là gì, có phải là một điều gì đó tốt “hơn” những gì nó đang có? Vậy thì hạnh phúc luôn ở phía trước, ở tương lai của nó mà nó không bao giờ chạm tới được.
Có một ngày như thế, giống như khi xưa Đức Phật giáo hoá kẻ sát hại 999 người vô tội chạy đuổi theo để giết Ngài. Kẻ đó hét lên: “Hãy dừng lại, nếu không ta sẽ giết chết ngươi”. Ngài vẫn đi, không dừng lại và ôn tồn nói: “Ta đã dừng lại từ lâu rồi, chỉ có ngươi chưa biết dừng lại đấy thôi.” Chỉ câu nói ấy mà rung động tâm can một kẻ giết người không nương tay, để hắn buông giáo, quỳ gối xin làm đệ tử của Ngài. Dừng lại. Hoá ra chỉ đơn giản như vậy thôi!
Đúng vậy. Khi dừng lại chính là lúc nó được trở lại sự an lành đã mất, là những giây phút của ngày xưa được sống trong an bình, ngắm chuồn ngủ bên bờ suối. Dừng lại để trở lại với chính mình. Dừng lại để thấy mình trở về là.. một đứa trẻ.
Sự thực đơn giản ấy phải đến khi đi hết gần cả cuộc đời nó mới hiểu.
Bài thuốc chữa ung thư phổi, viêm phổi nặng, lao phổi mình đã đưa lên lần trước. Giờ đưa lại để những ai hữu duyên sẽ được thoát khỏi bệnh nhé.
- 1 nắm lá mơ lông tía, xay, giã vắt lấy nước. Nắm lá nghĩa là bạn vặt lá mơ rồi nắm chặt trong tay ấy
- Dừa xiêm 1 quả lấy phần nước
- Mật ong 3 thìa
Trộn 3 loại này vào với nhau, được bao nhiêu nước uống bấy nhiêu. Uống vào 2 thời điểm 9h sáng và 9h tối trong ngày. Uống đến khi nào đi khám lại hết bệnh thì ngưng.
Cây cỏ quanh ta đều là thuốc nhưng thuốc lành nhất chính là cơm gạo. Song song với uống bài thuốc này là ăn cơm gạo lứt muối mè theo số 7 thì bệnh phổi nặng mấy cũng phải lui và người bệnh sẽ khỏe mạnh.
Quốc y đại sư Lộ Chí Chính, một chuyên gia Đông y đầu ngành nổi tiếng tại Trung Quốc, người từng viết rất nhiều sách về cách phòng tránh bệnh và dưỡng sinh cho rằng, cơ thể ẩm ướt không phải là bệnh, nhưng tất cả các bệnh đều phát sinh từ đây.
Giống như thời tiết nồm ẩm, khái niệm dư thừa nước, chỉ nghe thôi bạn đã dễ hình dung được những tác hại gây ra với sức khỏe. Nhưng đó là thứ chúng ta có thể cảm nhận thấy. Còn cơ thể dư thừa độ ẩm, những nguy cơ còn nhiều hơn thế lại khó nhận ra.
Đại sư Chính dù đã hơn 96 tuổi nhưng ông vẫn khỏe, làm việc hàng ngày với các bệnh nhân, tiếp xúc báo chí trả lời phỏng vấn và viết sách báo. Để sở hữu cơ thể khỏe như lứa tuổi 60-70, ông đã áp dụng nhiều biện pháp dưỡng sinh cẩn thận.
Cơ sở nào để nói rằng cơ thể dư ẩm là nguyên nhân gây bệnh?
Trong cuốn sách nổi tiếng "Cách chữa bệnh dư ẩm của Đông y", Đại sư Chính viết "Cơ thể dư thừa độ ẩm không phải là bệnh, nhưng tất cả các bệnh đều có sự ảnh hưởng của nó".
Đại sư Chính cho rằng, việc dư thừa độ ẩm thể hiện rõ nhất ở bệnh viêm xương khớp dạng thấp, bệnh chàm, đau đầu, chóng mặt, mất ngủ, cholesterol cao, bệnh tim mạch vành, đột quỵ, tiết dịch âm đạo nhiều, bệnh gout, tiêu chảy, tăng huyết áp…
Có thể thấy, việc cơ thể bị rối loạn trao đổi chất và nước sẽ gây ra tác hại rất lớn và lan rộng. Có 2 loại dư thừa độ ẩm (quá mức) theo quan niệm của Đông y, đó là dư ẩm không khí và dư ẩm thân thể.
(Ảnh minh họa)
Thời tiết nồm ẩm ảnh hưởng sức khỏe thế nào ?
Chúng ta đều biết, yếu tố dư thừa độ ẩm bên ngoài xuất phát từ đặc điểm của thời tiết. Do lượng nước trong không khí, mây, mưa, sương mù xuất hiện sẽ bao phủ môi trường sống. Khi độ ẩm ngoài môi trường càng tăng, nguy cơ sinh bệnh trong cơ thể càng lớn.
Ví dụ khi trời sương mù dày đặc, không khí sẽ lưu thông chậm, những vật chất độc hại trong không khí giống như bụi sẽ lơ lửng bay và tấn công vào cơ thể thông qua đường hô hấp, là đầu mối gây ra bệnh.
Khi môi trường ẩm ướt kéo dài, trong nhà chứa độ ẩm lớn, tạo môi trường thuận lợi cho nấm mốc hoạt động mạnh, gây ra dị ứng. Đặc biệt vào mùa nồm, chúng ta đều cảm nhận rất rõ tác hại của thời tiết dư ẩm, ngột ngạt, bí bách.
Không những thế, khi độ ẩm không khí tăng cao, cơ thể sẽ khó bài tiết mồ hôi. Đây là một trong những yếu tố ảnh hưởng lớn đến sức khỏe. Chúng ta đều biết, tiết mồ hôi là "công việc" quan trọng của cơ thể để giải nhiệt, điều tiết nhiệt độ cơ thể, nếu thời tiết ẩm, hệ thống thải mồ hôi sẽ bị "đình chỉ" hoạt động.
Ở một số trường hợp, khi không thể bài tiết mồ hôi để cân bằng nhiệt, có thể gây ra khó thở, ngột ngạt, trong người nôn nao, thậm chí đột quỵ, sốc nhiệt.
(Ảnh minh họa)
Cơ thể dư thừa độ ẩm cũng nguy hại như thời tiết?
Việc dư thừa độ ẩm bên ngoài (thời tiết nồm) chúng ta có thể nhận biết rõ bao nhiêu thì việc dư thừa độ ẩm trong cơ thể lại khó nhận biết bấy nhiêu. Chỉ khi bạn tinh ý quan sát thì mới có thể biết được.
Dấu hiệu dễ thấy nhất của bệnh dư thừa độ ẩm cơ thể chính là lưỡi bị nhầy mỡ, lưỡi có các vết nứt và các hoa văn bất thường.
Triệu chứng này có đặc điểm vùng miền rất rõ, vùng thời tiết ẩm hay ven biển sẽ xuất hiện nhiều hơn là vùng khô ráo. Theo Đại sư Chính, nguyên nhân chủ yếu của triệu chứng này là do thói quen sống thay đổi, ăn đồ đông lạnh, uống nước có đá, ăn uống vô độ, cơ thể viêm nhiễm, ít vận động, bài tiết kém, tinh thần căng thẳng, lo âu, áp lực.
Quan sát 3 dấu hiệu của lưỡi như trên để chẩn đoán bệnh dư ẩm (Ảnh minh họa)
Giải pháp loại bỏ các bệnh nảy sinh do nhân tố dư ẩm gây ra
Do dư thừa độ ẩm, nhiều người bị các bệnh nhẹ kiểu như lở miệng, bốc hỏa, tiêu chảy, cảm lạnh hoặc một số triệu chứng "lặt vặt" khác. Đông y cho rằng, người thể trạng bị nhiệt thì vẫn có dấu hiệu dư ẩm, và người có thể trạng lạnh thì vẫn có thể bốc hỏa. Vậy nên tùy từng trường hợp cụ thể để khắc phục.
Giả sử, người bị nhiệt miệng, lở loét miệng chưa chắc uống thuốc thanh nhiệt đã khỏi. Người vừa bị đau bụng đi ngoài mà lập tức uống thuốc chữa lạnh bụng chưa chắc đã đúng. Hoặc những người miệng bị đắng, miệng nhớt mà uống thuốc giải ẩm cũng không hẳn là chuẩn. Vậy làm thế nào?
Theo nghiên cứu của Bác sĩ Chính, cơ thể mỗi người mỗi khác, và bệnh tật xuất hiện cũng hoàn toàn khác nhau, phức tạp. Có người vừa mắc chứng dư ẩm, cũng lại mắc dư nhiệt nên việc điều trị không đúng sẽ rất khó chữa khỏi.
Có người bị nhiệt, điều trị giải nhiệt quá mức lại sinh ra lạnh. Ngược lại, có người bị lạnh, bồi bổ nhiệt quá mức lại sinh ra nóng bốc hỏa. Nếu giải phóng độ ẩm quá mức lại sinh tổn khí, khi bổ khí quá mức lại sinh ra bệnh đường ruột, rơi vào vòng xoáy luẩn quẩn, bổ quá hóa thừa.
Để giải nhiệt, kiện tì vị, làm cho khí lưu thông, Đại sư Chính nghiên cứu cho biết, cách giải nhiệt, chống bốc hỏa bằng bài thuốc đơn giản như sau:
Vỏ đậu xanh 20 gam, lá sen 20 gam, đun thành nước uống thay trà.
Chúng ta đều biết, chức năng chính của lá lách là chuyển hóa độ ẩm (điều tiết lượng nước) trong cơ thể.
Trong cơ quan ngũ tạng muốn điều tiết nước đều phải thông qua lá lách, mà độ ẩm ở lá lách và ở dạ dày có sự liên quan đến nhau.
Kinh nghiệm của đại sư Chính cho thấy, khi cơ thể dư ẩm gây ra tiêu chảy, chúng ta không nên uống thuốc chữa tiêu chảy ngay lập tức, vì như vậy sẽ ức chế quá trình thải ẩm, làm cho bệnh kéo dài.
Một số bệnh phát sinh do dư ẩm (sách "Bản thảo cương mục" nổi tiếng của Trung Quốc)
Khi lá lách bị dư ẩm, táo bón sẽ xuất hiện, phân không đủ độ trơn, đại tiện không hết, phân không đủ ráo, thời gian đại tiện lâu, có thể kéo dài đến nửa tiếng.
Trong trường hợp này, bạn nên dùng hạt củ cải, khoảng 1,5g đun nước uống ngày 2 lần.
2. Dư ẩm ở thận sẽ sinh ra đau mỏi vùng eo lưng
Bệnh thận hư do dư ẩm có 4 đặc điểm chính:
Nặng: Cảm giác nặng nề như bị quấn 1 giải sắt to xung quanh vòng eo.
Khó khăn: Khó vận động xoay chuyển vùng eo, ngồi lâu không vận động thì cảm giác đau nặng hơn.
Mỏi: Khi không vận động thì toàn bộ cơ bắp đau mỏi, khi vận động xong thì lại thư giãn nhẹ nhõm hơn.
Lạnh: Cảm giác bị lạnh tê vùng eo, khi được tăng nhiệt thì triệu chứng giảm nhẹ.
Cách đơn giản nhất để giảm triệu chứng thận dư ẩm là chườm nóng. Bạn có thể dùng muối rang quấn khăn chườm quanh vùng eo sau lưng (vị trí thận).
Khi có tuổi, cơ thể rất dễ bị sinh ra đau lưng, có người nghĩ rằng có thể do hồi trẻ lao động quá sức sinh đau lưng, cũng có người cho rằng thận gặp vấn đề. Trên thực tế, nhiều người không biết rằng khi thận bị tổn thương, sẽ gây đau lưng như vậy.
Nhưng để phân biệt chứng đau lưng do thận và đau do nguyên nhân khác bằng cách nào?
Đại sư Chính cho rằng, nếu đau lưng do tổn thương khác thì sẽ đau đúng 1 vị trí, còn đau lưng do thận dư ẩm sẽ đau nhiều hơn 1 vị trí, phạm vi đau rộng.
Nếu đau lưng do yếu tố khác sẽ bị hạn chế vận động, còn đau lưng do thận thì càng vận động càng thấy thư giãn thoải mái hơn.
3. Dư ẩm ở gan có thể sinh đờm
Nhiều người nghĩ rằng đờm chỉ xuất hiện trong phổi, ho ra đờm, ở hệ thống hô hấp, nhưng thực tế không chỉ như vậy. Gan cũng có đờm.
Khi gan có đờm ở mức nhẹ, bạn sẽ có cảm giác khó chịu trong vòm miệng, miệng dính nhớt như có keo.
Khi bệnh nặng hơn, bạn sẽ nhổ ra đờm có chất nhầy, giống như người bị bệnh não hay động kinh bị sùi bọt mép, chất nhầy tương tự như vậy.
Một vị thiền sư nhìn thấy một con bọ cạp bị rơi xuống nước, liền muốn cứu nó. Không ngờ vừa mới đụng tay vào, đã bị bọ cạp cắn vào tay. Vị thiền sư vẫn không sợ hãi, lại cho tay vào, nhưng lại một lần nữa bị con bọ cạp hung hăng cắn. Vừa hay lúc đó, có một người đi ngang qua nói: “Con vật này xưa nay hay cắn người, làm sao phải cứu nó?”. Thiền sư đáp: “Cắn người là bản tính của nó, còn Lương Thiện là bản tính của tôi, tôi sao lại có thể vì bản tính của nó mà quên mất bản tính của mình được chứ!” P/s:Trên đời này,bất luận điều gì đều có luật Nhân Quả.Người ác với ta là nghiệp của người,nếu ta đáp trả lại thành nghiệp của ta.Bởi vậy cho nên việc của ta là Lương Thiện,còn lại trời xanh tự khắc sẽ có an bài. ST
Trong thế giới quá ồn ào huyên náo, có người vào núi rừng nghe tiếng gió thổi suối reo thì tâm liền yên tĩnh lại. Có người một mình độc ẩm một ấm trà cũng có thể khiến tâm trầm lắng xuống...
Vậy thì, 10 nhã sự sau cũng là những phương pháp tốt mà người xưa sử dụng để tĩnh tâm, hiểu sâu hơn về cuộc sống.
1. Thắp nén hương thơm, nội tâm tĩnh lặng lại
Thắp hương kính Thần Phật, kính Trời Đất, từ cổ xưa đến nay đã là một phương thức khiến cho con người có được thân tâm tự nhiên yên tĩnh. Người xưa đọc sách, đọc sách của Thánh nhân, thường thắp hương thờ kính bậc Thánh giả. Cùng với làn hương thơm lan tỏa, thân tâm dần tĩnh lại, thành tâm đọc sách của Thánh nhân, học tập thu được nhiều lợi ích.
Có người thích trước khi pha trà thắp một nén hương, khiến thân tâm nhanh chóng bình lặng trở lại, bởi vì tâm tĩnh mới có thể cảm thụ được dư vị đích thực của trà.
Dâng hương cũng cần biết tại sao dâng hương, thành tâm kính Thần Phật, kính Trời Đất, vô cầu vô dục, tự sẽ có Thần Phật bảo hộ, tự sẽ tĩnh tâm an tường.
Nếu vì dục vọng cầu xin mà dâng hương, tâm dục vọng chấp trước rất nặng, thì rất khó đạt được cái tâm bình lặng.
2. Đàn là khí cụ của Thánh hiền, quân tử
Trong “Cầm luận” đời Tống viết: “Chơi đàn như tham thiền, tháng năm ma luyện, dần dà tỉnh ngộ thì không gì là không thông tỏ, tung hoành diệu dụng tự tại có dư”.
Lý Chí đời Minh nói tiếp: “Cái đạo của âm thanh là có thể thông với thiền”. Cổ cầm là bộ phận quan trọng cấu thành văn hóa Á Đông. Nói đến đời sống âm nhạc của người xưa, chúng ta thường nghĩ đến “Trúc Lâm Thất Hiền” thời Ngụy Tấn. Họ sùng kính yêu chuộng Đạo Lão Trang, thường tụ tập gặp nhau trong rừng trúc, trong tiếng trúc reo chim hót, cùng nhau uống rượu làm thơ, sống cuộc sống tràn đầy âm nhạc và thi vị.
Kê Khang, đại sư cổ cầm đời Ngụy Tấn viết trong “Dưỡng sinh luận” rằng: “Càng nên điều tức tĩnh tâm, thường như băng tuyết trong tâm, nóng nảy cũng giảm thiểu trong tâm, không thể dùng náo nhiệt để gây hứng thú, sẽ càng sinh thêm nóng nảy vậy”. Đây chính là cái gọi là “Tâm tĩnh tự nhiên mát lành”, là phép điều dưỡng tinh thần trong các phép dưỡng sinh mùa hạ.
Dùng nhạc như dùng thuốc, âm nhạc có thể thư giãn thân thể, vui vẻ tâm hồn, lưu thông khí huyết, đả thông kinh lạc, giống như dùng thuốc điều dưỡng, có năng lực điều trị đối với thân thể người. Âm nhạc có thể khiến con người trong những ngày hè nóng nực tĩnh tâm, tĩnh khí, tự nhiên mát lành.
Nhạc khúc êm đềm điển nhã có thể nuôi dưỡng điều hòa tính tình. Trong cuộc sống, có thể ôm đàn gẩy một khúc là con đường tốt nhất tu dưỡng tinh thần và tính tình.
Xã hội hiện đại có những âm nhạc cuồng loạn. Thứ âm nhạc đó khiến con người cuồng loạn, mê loạn, mọi người tốt nhất là nên tránh xa.
Đàn là khí cụ của Thánh hiền, quân tử. (Ảnh: 69ys.com)
3. Chơi cờ không bằng xem cờ, vì người xem cờ không có cái tâm được mất
Thời xưa, người có học thức có địa vị thường chơi cờ để tiêu khiển giải trí, đồng thời cũng rèn luyện được năng lực suy xét toàn cuộc, tăng cường mưu lược bản thân. Do đó trong chợ, quán trà thường có người nhàn nhã chơi cờ tiêu khiển.
Sách “Nhàn tình ngẫu ký” của Lạp Ông có viết: “Chơi cờ không bằng xem cờ, vì người xem cờ không có cái tâm được mất”.
Nhưng xem cờ cũng có chỗ khó xử, xem cờ mà không nói là một loại thống khổ. Cổ họng cứ ngứa ngáy lạ kỳ, chỉ muốn nói ra mới sảng khoái.
4. Có sách chân phú quý, vô sự tiểu Thần Tiên
Có câu cổ ngữ rằng: “Có sách chân phú quý, vô sự tiểu Thần Tiên”. Văn nhân đọc sách của Thánh nhân có thể sánh với chân nhân thượng giới, Tiên phúc vô biên.
Kim Thánh Thán có nói: “Mặc áo hồng tụ xông hương đọc nhàn thư, đó chính là niềm vui lớn nhất đời người”. Người xưa đã sớm nhìn thấu đại Đạo nhân sinh, coi thanh tâm tu dưỡng là thành tựu lớn nhất của sinh mệnh mình.
Người xưa có nói: “Khí chất con người do Trời sinh ra, vốn khó thay đổi, duy chỉ có đọc sách mới có thể thay đổi khí chất”.
Người xưa cũng nói: “Chúng ta đọc sách, chỉ có 2 việc, một là việc tăng đức, việc nữa là việc tu nghiệp (tức là: gây dựng công tích sự nghiêp)”.
Xã hội ngày nay, thư tịch tạp nham loạn bậy, thậm chí sách xấu rất nhiều, sách tốt thì ít, nên người đọc cần lựa chọn kỹ. Sách tốt dạy người hướng thiện, dạy người trí tuệ, dạy người bản lĩnh, khiến con người có chỗ đứng trong xã hội, tạo phúc lợi cho xã hội, bản thân người đọc sách cũng có được hạnh phúc.
Người xưa có nói: “Khí chất con người do Trời sinh ra, vốn khó thay đổi, duy chỉ có đọc sách mới có thể thay đổi khí chất”. (Ảnh: wikipedia.org)
5. Thưởng thức tranh, con người sự vật giữa Trời Đất tự nhiên hài hòa
Thưởng thức tranh có thể khiến tâm cảnh con người chìm vào trong bầu không khí nghệ thuật, được hun đúc thấm đượm. Thưởng thức tranh ngoài việc khiến con người tăng thêm tri thức ra còn khiến tấm lòng rộng mở, tinh thần vui tươi sảng khoái, là ‘liệu pháp tinh thần’ của tâm bệnh.
Thưởng thức tranh xưa nay là một loại thưởng thức hưởng thụ cao nhã, có thể nuôi dưỡng tính tình, khiến thân tâm khỏe mạnh. Nếu nói thưởng thức tranh như liều thuốc tốt thì e rằng sẽ có người khó mà tin nổi. Kỳ thực thưởng thức tranh để trị bệnh xưa nay đều có.
Vương Ma Cật đời Đường có thơ rằng:
Viễn khán sơn hữu sắc,Cận thính thủy vô thanh.Xuân khứ hoa hoàn tại,Nhân lai điểu bất kinh.
Tạm dịch:
Xa ngắm non sắc biếc,Gần nghe nước vô thanh.Xuân đi hoa còn đó,Người về chim chẳng kinh.
Người xưa vẽ tranh, một cây bút, một tờ giấy, tung hoành phóng khoáng, tả ý trôi chảy thanh thoát. Người xưa vẽ tranh đều có ý sâu xa, ý tứ đặt bút, nét nào cũng đều có chủ ý.
Thưởng thức tranh cổ khiến con người yên tĩnh, chí hướng xa xôi, con người, sự vật giữa Trời Đất tự nhiên hài hòa, không ham dục, không tham vọng, tâm thái bình hòa, cảm giác như hòa nhập vào trong bức họa.
Xã hội ngày nay, con người lựa chọn đạo đức truyền thống là rất then chốt, vì đạo đức truyền thống có thể khiến con người bình an hạnh phúc.
Thưởng thức tranh xưa nay là một loại thưởng thức hưởng thụ cao nhã. (Ảnh: propr.info)
6. Thưởng hoa không hiểu rõ hoa thì khó đến được cảnh giới cao nhã
Hoa đẹp khó kiếm như cánh chim bằng trở về dưới ánh chiều tà. Cỏ hoa trắng muốt gửi mộng đẹp bay tới chân trời.
Các nước Á Đông có lịch sử văn hóa lâu đời, trong rất nhiều các tác phẩm nghệ thuật, hoa là một đề tài quan trọng.
Các khúc nhạc cổ có “Xuân giang hoa nguyệt dạ”, “Mai hoa tam lộng”, “Ngọc thụ hậu đình hoa” v.v…
Thơ ca, hội họa lấy hoa làm đề tài thì nhiều không kể xiết, ngay cả các tác phẩm nghệ thuật truyền thống như thêu, gốm sứ thì các bức họa tiết hoa cỏ cũng là những đồ trang sức quan trọng.
Mọi người thưởng thức hoa, không chỉ thưởng thức vẻ đẹp tự nhiên sắc, hương, dáng vẻ, mà còn tổng hợp cảm thụ của bản thân đối với hoa, dành cho hoa một loại phong độ, phẩm đức. Từ xưa đã nói “không hiểu rõ hoa vân thì khó đến được cảnh giới cao nhã”.
Người thích lan yêu lan cao nhã thoát tục. Người thích cúc yêu cúc đứng độc lập trong thu lạnh. Người thích sen yên sen mọc từ bùn lầy mà không ô nhiễm. Người thích mai yêu mai ngạo nghễ trong gió lạnh chống chọi với tuyết sương.
7. Đêm lạnh khách tới trà thay rượu, lò trúc nước reo lửa rực hồng
Người Á Đông uống trà, chú trọng chữ “Thưởng”. “Thưởng trà” không những phân biệt trà tốt xấu mà còn có mang theo ý tưởng xa xôi và tình thú thưởng trà.
Chọn nơi thanh nhã yên tĩnh, pha một ấm trà thơm nồng, tự châm tự ẩm, gột sạch những phiền não, giúp ích cho tư duy, phấn chấn tinh thần, nhấp từng ngụm nhỏ, thưởng thức sự mỹ diệu thú vị của ẩm trà.
Trà không phân biệt giàu nghèo, cũng không phân biệt sang hèn, có thể đơn giản mộc mạc, cũng có thể đường hoàng tinh tế, rất thông tục, cũng rất cao nhã.
Dùng trà giải khát thanh tâm, trà còn dùng để tu dưỡng tính tình, biểu đạt thái độ khác nhau của mỗi cá nhân đối với trà. Kỳ thực cảnh giới mỗi người mỗi khác, không nói đến cao thấp khác nhau, mà mỗi người trong khi thưởng trà đều có truy cầu và yên định riêng của mình, có đắc đạo hay không thì hoàn toàn dựa vào ngộ tính.
Đêm lạnh khách tới trà thay rượu, lò trúc nước reo lửa rực hồng. (Ảnh: sohu.com)
8. Thưởng nguyệt, ước hẹn cùng trăng
Trong văn hóa truyền thống Á Đông, ánh trăng luôn luôn là tải thể của tư tưởng tình cảm nhân loại, ý nghĩa hàm chứa của trăng vô cùng phong phú.
Trong nhiều thơ ca vịnh trăng, thi nhân đem trăng hòa tan vào trong tư tưởng tình cảm nội tâm, đồng thời khiến trăng và tư tưởng tình cảm nội tâm cùng tỏa sáng lẫn nhau, sáng tạo ra rất nhiều ý cảnh thẩm mỹ ưu mỹ, và đưa chất lượng văn học, nội hàm tư tưởng và cảnh giới nghệ thuật nâng cao lên một trình độ cực cao.
Nơi đô thị ồn ào náo nhiệt rất cần những thứ thanh nhã này để cân bằng. Chúng ta thử tĩnh tâm xuống, học người xưa thắp hương thưởng trà đợi trăng ngắm thư họa.
Đợi trăng là có hẹn ước với trăng khi trăng nhô lên trong màn đêm. Tắm gội dưới ánh trăng, thụ hưởng cảnh đẹp này, tâm tình cũng dịu êm như nước.
9. Ngao du sơn thủy tìm nơi u tĩnh thăm thú danh lam
Người Á Đông du sơn ngoạn thủy không mang cái tâm chinh phục, mà là thưởng thức cái đẹp hàm súc thâm sâu u tịch thăm thẳm, sâu không thể dò của non nước.
Hãy thử tưởng tượng một buổi sáng trong lành, dạo bước bên ngoài ngôi chùa cổ kính, vầng dương nhô lên chiếu sáng khắp núi rừng. Con đường nhỏ uốn lượn quanh co dẫn đến một nơi u tĩnh, nơi các tăng lữ tụng kinh kính Phật thấp thoáng trong rừng cây hoa lá. Sắc núi sáng trong thanh tịnh đổ bóng xuống lòng hồ sâu trong vắt, khiến bao tục niệm trong tâm đều gột rửa sạch tinh.
Cái mà thiên nhiên vĩnh viễn có chính là cái tự do thuận theo đạo lý, quy luật. So với cõi hồng trần huyên náo không lúc nào ngơi nghỉ kia, thiên nhiên rộng lớn lặng lẽ luôn luôn có thể vỗ về an ủi lòng người.
Rũ sạch hồng trần, hòa đồng tĩnh lặng cùng thiên nhiên, đó chính là cái lãng mạn của tìm nơi u tĩnh.
Người xưa coi trọng tu thân cách vật, nuôi dưỡng tính tình, “Cùng tắc độc thiện kỳ thân. Đạt tắc kiêm thiện thiên hạ”, nghĩa là: “Khi khốn cùng thì khiên riêng bản thân mình tốt đẹp thiện lương. Lúc hiển đạt thì khiến cả thiên hạ tốt đẹp thiện lương”. Vừa có lý tưởng nhập thế, lại có tâm cảnh thoáng đạt xuất thế.
Rũ sạch hồng trần, hòa đồng tĩnh lặng cùng thiên nhiên, đó chính là cái lãng mạn của tìm nơi u tĩnh. (Ảnh: 69ys.com)
10. Thanh mai soi bóng trong chén rượu, say mở lòng, nhạt nồng đều vui thú
Người xưa nói: “Uống rượu cũng là một loại học vấn, không phải là việc ăn uống mà thôi”, và cũng nói: “Khi say càn khôn lớn, bầu rượu tháng ngày dài”.
Ta có một bầu rượu đủ gột rửa phong trần, đây chính là cái lãng mạn của uống rượu.
Người trí tuệ xưa nay, phần nhiều là trong cảnh giới vừa ngà ngà say nhận thức thế giới, triệt ngộ nhân sinh, tu luyện phẩm đức bản thân.
Rượu là một loại văn hóa, uống rượu truy cầu ý cảnh, không được uống loạn.
Sách “Thượng thư tửu cáo” có viết: “Không uống rượu thường xuyên, không uống rượu quá độ”. Trăng thanh gió mát, mưa bụi tuyết bay, hoa nở trước thềm, rượu vừa ủ tới, đều là những khoảnh khắc đẹp để uống rượu.
Phong nhã bắt nguồn từ nội tâm yên tĩnh, thanh đạm, lui mình ra khỏi bộn bề tất bật, từ nơi tạp niệm rối loạn lưu lại một không gian nhàn nhã thư thái. Tô Đông Pha có thơ rằng:
Giang sơn phong nguyệt,Bản vô thường trú,Nhàn giả tiện thị chủ nhân.
Tạm dịch là:
Non sông trăng với gió,Vốn chẳng thể trường tồn,Người nhàn đích thị ấy chủ nhân.
Nếu không có cái tâm nhàn thì nhã nương tựa vào đâu?